Y Học - Sức Khỏe

Các thông tin mới nhất về y học sức khỏe như y học sức khỏe ăn uống, điều trị, thực phẩm, dinh dưỡng.

Công Nghệ Mới

Những công nghệ mới nhất trong ngành khoa học như công nghệ máy tính, các nhiên liệu mới phục vụ cho đời sống.

Bí Ẩn Thế Giới

Khoa học bí ẩn cùng các hiện tượng bí ẩn khoa học được khám phá, được giải mã.

Môi Trường

Môi trường luôn là một trong những chủ đề được quan tâm nhất ngày nay.

Gia Đình và Cuộc Sống

Cập nhật thông tin liên tục về các vấn đề thời sự, sinh hoạt, gia đình, xã hội.

Thứ Ba, 8 tháng 1, 2019

Hướng dẫn phương pháp đọc kết quả xét nghiệm máu

Phương pháp đọc kết quả xét nghiệm máu hay nước tiểu là điều bạn cần khi đi khám sức khỏe do các bác sĩ vẫn hay chỉ định người bệnh đi làm xét nghiệm máu và xét nghiệm nước tiểu. Thế nhưng trường hợp bác sĩ không giải thích thì bạn cũng không khả năng hiểu được những chỉ số trên kết quả xét nghiệm có ý nghĩa gì. Mời các bạn cùng theo dõi bài viết bên dưới để cùng tìm hiểu về biện pháp đọc kết quả xét nghiệm máu.

I. Các THÀNH PHẦN CỦA CÔNG THỨC MÁU

- WBC (White Blood Cell – Số lượng bạch cầu trong một thể tích máu):

Giá điều trị thường nằm trong khoảng từ 4.300 tới 10.800 tế bào/mm3, tương đương với số lượng bạch cầu tính theo đơn vị quốc tế là 4.3 đến 10.8 x 109tế bào/l.

Tăng trong viêm nhiễm, bệnh máu ác tính, những căn bệnh bạch cầu...; giảm trong thiếu máu vì bất sản, thiếu hụt vitamin B12 hoặc folate, nhiễm khuẩn...

Giá trị thường nằm trong khoảng từ 4.300 đến 10.800 tế bào/mm3.
Giá chữa trị thường nằm trong khoảng từ 4.300 đến 10.800 tế bào/mm3.

- RBC (Red Blood Cell – Số lượng hồng cầu (hoặc erythrocyte count) trong một khả năng tích máu):

Giá trị thường nằm trong khoảng từ 4.2 đến 5.9 triệu tế bào/cm3, tương đương với số lượng hồng cầu tính theo đơn vị quốc tế là 4.2 tới 5.9 x 1012tế bào/l.

Tăng trong mất nước, chứng tăng hồng cầu; giảm trong thiếu máu.

- HB hay HBG (Hemoglobin – Lượng huyết sắc tố trong một nguy cơ tích máu):

Hemoglobin là một loại phân tử protein có trong hồng cầu chuyên chở oxy và tạo màu đỏ cho hồng cầu.

Giá chữa thay đổi phụ thuộc giới tính, thường nằm trong khoảng từ 13 tới 18 g/dl đối với nam và 12 tới 16 g/dl đối với nữ (tính theo đơn vị quốc tế tương ứng là 8.1 – 11.2 millimole/l và 7.4 – 9.9 millimole/l).

Tăng trong mất nước, căn bệnh tim và nhóm bệnh phổi; giảm trong thiếu máu, chảy máu và những phản ứng tạo nên tan máu.

- HCT (Hematocrit – Tỷ lệ thể tích hồng cầu trên thể tích máu toàn bộ):

Giá trị thay đổi dựa giới tính, thường nằm trong khoảng từ 45 đến 52% đối với nam và 37 tới 48% đối với chị em.

Tăng trong các rối loạn dị ứng, chứng tăng hồng cầu, hút thuốc lá, bệnh lý phổi tắc nghẽn mạn tính, căn bệnh mạch vành, ở trên núi tương đối cao, mất nước, chứng giảm lưu lượng máu; giảm trong mất máu, thiếu máu, thai nghén.

- MCV (Mean corpuscular volume – thể tích trung bình của một hồng cầu):

Giá chữa trị này được lấy từ HCT và số lượng hồng cầu. Giá chữa trị bình thường nằm trong khoảng từ 80 đến 100 femtoliter (1 femtoliter = 1/1triệu lít).

Tăng trong thiếu hụt vitamin B12, thiếu acid folic, bệnh lý gan, nghiện rượu, chứng tăng hồng cầu, suy tuyến giáp, bất sản tuỷ xương, xơ hoá tuỷ xương; giảm trong thiếu hụt sắt, hội chứng thalassemia và các nhóm bệnh hemoglobin khác, thiếu máu trong những nhóm bệnh mạn tính, thiếu máu nguyên hồng cầu, suy thận mạn tính, nhiễm độc chì.

- MCH (Mean Corpuscular Hemoglobin – Số lượng trung bình của huyết sắc tố có trong một hồng cầu):

Giá điều trị này được tính bằng biện pháp đo hemoglobin và số lượng hồng cầu. Giá điều trị bình thường nằm trong khoảng từ 27 đến 32 picogram.

Tăng trong thiếu máu tăng sắc hồng cầu bình thường, chứng hồng cầu hình tròn truyền vô cùng lớn, sự có mặt của các yếu tố ngưng kết lạnh; giảm trong bắt đầu thiếu máu thiếu sắt, thiếu máu nói chung, thiếu máu đang tái tạo.

- MCHC (Mean Corpuscular Hemoglobin Concentration – Nồng độ trung bình của huyết sắc tố trong một thể tích máu):

Giá chữa này được tính bằng phương pháp đo giá chữa của hemoglobin và hematocrit. Giá trị bình thường nằm trong khoảng từ 32 tới 36%.

Trong thiếu máu tăng sắc: hồng cầu bình thường, chứng hồng cầu hình tròn di truyền to lớn, sự có mặt của những yếu tố ngưng kết lạnh.

Trong thiếu máu đang tái tạo: có thể bình thường hoặc giảm vì giảm folate hoặc vitamin B12, xơ gan, nghiện rượu.

- PLT (Platelet Count – Số lượng tiểu cầu trong một nguy cơ tích máu):

  • Tiểu cầu không phải là một tế bào hoàn chỉnh, mà là những mảnh vỡ của những tế bào chất (một thành phần của tế bào không chứa nhân hoặc thân của tế bào) từ những tế bào được tìm thấy trong tủy xương.
  • Tiểu cầu đóng vai trò sống còn trong quá trình đông máu, có tuổi thọ trung bình là 5 đến 9 ngày.
  • Giá trị thường nằm trong khoảng từ 150.000 đến 400.000/cm3 (tương đương 150 – 400 x 109/l).
  • Số lượng tiểu cầu quá thấp sẽ gây nên mất máu. Số lượng tiểu cầu quá rất cao sẽ xuất phát cục máu đông, làm vướng bận mạch máu, gây nên đột quỵ, nhồi máu cơ tim, nghẽn mạch phổi, tắc nghẽn mạch máu...
  • Tăng trong những rối loạn tăng sinh tuỷ xương, bệnh bạch tăng tiểu cầu vô căn, xơ hoá tuỷ xương, sau chảy máu, sau phẫu thuật cắt bỏ lách..., dẫn đến những bệnh lý viêm.
  • Giảm trong ức chế hoặc thay thế tuỷ xương, các chất hoá chữa liệu, phì đại lách, đông máu trong lòng mạch rải rác, các kháng khả năng tiểu cầu, ban xuất huyết sau truyền máu, giảm tiểu cầu vì miễn dịch đồng loại ở trẻ sơ sinh...

Lymphocyte giúp cơ thể chống lại nhiễm trùng.
Lymphocyte giúp thân thể chống lại nhiễm trùng.

- LYM (Lymphocyte – Bạch cầu Lymphô):

Lymphocyte giúp cơ thể chống lại nhiễm trùng. Có khá nhiều lý do làm giảm lymphocytes như: giãm miễn nhiễm, nhiễm HIV/AIDS, Lao, sốt rét, ung thư máu, ung thư hạch...

Giá chữa trị bình thường nằm trong khoảng từ 20 đến 25%.

- MXD (Mixed Cell Count – tỷ lệ pha trộn tế bào trong máu):

Mỗi loại tế bào có một lượng % nhất định trong máu. MXD thay đổi tùy vào sự tăng hoặc giảm tỷ lệ của từng loại tế bào.

- NEUT (Neutrophil – Tỷ lệ bạch cầu trung tính):

Giá chữa bình thường nằm trong khoảng từ 60 đến 66%. Tỷ lệ tăng khá cao cho biết nhiễm trùng máu.

Tăng trong nhiễm khuẩn cấp, nhồi máu cơ tim cấp, stress, ung thư, căn bệnh bạch cầu dòng tuỷ; giảm trong nhiễm virus, thiếu máu bất sản, những thuốc ức chế miễn dịch, xạ trị...

- RDW (Red Cell Distribution Width – Độ phân bố hồng cầu):

Giá chữa trị này càng cao nghĩa là độ phân bố của hồng cầu thay đổi càng nhiều. Giá chữa bình thường nằm trong khoảng từ 11 đến 15%.

RDW bình thường và:

  • MCV tăng, gặp trong: thiếu máu bất sản, trước nhóm bệnh bạch cầu.
  • MCV bình thường, gặp trong: thiếu máu trong những nhóm bệnh mạn tính, mất máu hoặc tan máu cấp tính, căn bệnh enzym hoặc bệnh lý hemoglobin không thiếu máu.
  • MCV giảm: thiếu máu trong các nhóm bệnh mạn tính, nhóm bệnh thalassemia dị hợp tử

RDW tăng và:

  • MCV tăng: thiếu hụt vitamin B12, thiếu hụt folate, thiếu máu tan huyết tại miễn dịch, ngưng kết lạnh, căn bệnh bạch cầu lympho mạn.
  • MCV bình thường: thiếu sắt giai đoạn sớm, thiếu hụt vitamin B12 giai đoạn sớm, thiếu hụt folate giai đoạn sớm, thiếu máu do bệnh lý globin.
  • MCV giảm: thiếu sắt, sự phân mảnh hồng cầu, bệnh HbH, thalassemia.

- PDW (Platelet Disrabution Width – Độ phân bố tiểu cầu):

Giá điều trị bình thường nằm trong khoảng từ 6 đến18 %.

Tăng trong ung thư phổi, bệnh lý hồng cầu liềm, nhiễm khuẩn huyết gram dương, gram âm; giảm trong nghiện rượu.

- MPV (Mean Platelet Volume – nguy cơ tích trung bình của tiểu cầu trong một nguy cơ tích máu):

Giá trị bình thường nằm trong khoảng từ 6,5 đến 11fL.

Tăng trong bệnh tim mạch, tiểu con đường, hút thuốc lá, stress, nhiễm độc bởi tuyến giáp...; giảm trong thiếu máu bởi bất sản, thiếu máu nguyên hồng cầu khổng lồ, hoá chữa liệu ung thư, bạch cầu cấp...

- P- LCR (Platelet Larger Cell Ratio – Tỷ lệ tiểu cầu có kích thước lớn):

Giá điều trị bình thường nằm trong khoảng từ 150 đến 500 G/l (G/l = 109/l).

II. Phương pháp ĐỌC KẾT QUẢ SINH HÓA MÁU

GLUCOSE là đường trong máu. Giới hạn bình thường từ 4,1-6,1 mnol/l.
GLUCOSE là con đường trong máu. Giới hạn bình thường từ 4,1-6,1 mnol/l.

1. GLU (GLUCOSE): con đường trong máu. Giới hạn bình thường từ 4,1-6,1 mnol/l. Tình trạng vượt quá giới hạn cho phép thì tăng hoặc giảm con đường máu. Tăng trên giới hạn là người có khả năng khá cao về mắc bệnh tiểu con đường.

2. SGOT & SGPT: Nhóm men gan

Giới hạn bình thường từ 9,0-48,0 với SGOT và 5,0-49,0 với SGPT. Nếu vượt quá giới hạn này chức năng thải độc của tế bào gan suy giảm. Nên hạn chế ăn những chất thức ăn, nước uống làm cho gan khó hấp thu và hệ quả đến chức năng gan như:
các chất mỡ béo động vật và rượu bia và những nước uống có gas.

3. Nhóm MỠ MÁU: Bao gồm CHOLESTEROL, TRYGLYCERID, HDL-CHOLES, LDL-CHLES

Giới hạn bình thường của những yếu tố nhóm này như sau:

  • Giới hạn bình thường từ 3,4-5,4 mmol/l với CHOLESTEROL.
  • Giới hạn bình thường từ 0,4-2,3 mmol/l với TRYGLYCERID.
  • Giới hạn bình thường từ 0,9-2,1 mmol/l với HDL-Choles.
  • Giới hạn bình thường từ 0,0-2,9 mmol/l với LDL-Choles.

Trường hợp 1 trong các yếu tố trên đây vượt giới hạn cho phép thì có khả năng cao trong những bệnh lý về tim mạch và huyết áp. Riêng chất HDL-Choles là mỡ tốt, trường hợp khá cao nó hạn chế gây ra xơ tắc mach máu. Nếu CHOLESTEROL quá cao kèm theo có rất cao huyết áp và LDL-Choles cao thì nguy cơ tai biến, đột quỵ vì huyết áp cao. Nên hạn chế ăn các thực phẩm chứa nhiều chất mỡ béo và cholesterol như: phủ tạng động vật, trứng gia cầm, tôm, cua, thịt bò, da gà... Tăng cường vận động khả năng thao. Uống thêm rượu tỏi và theo dõi huyết áp thường xuyên.

4. GGT: Gama globutamin, là một yếu tố miễn dịch cho tế bào gan. Bình thường tình trạng chức năng gan tốt, GGT sẽ có khá kém tại trong máu (Từ 0-53 U/L). Khi tế bào gan phải việc làm quá mức, nguy cơ thải độc của gan bị kém đi thì GGT sẽ tăng lên -> Giảm sức đề kháng, miễn dịch của tế bào gan kém đi. Dễ dẫn đến suy tế bào gan. Trường hợp với người có nhiễm SVB trong máu mà GGT, SGOT & SGPT cùng tăng thì cần thiết phải sử dụng thuốc bổ trợ tế bào gan và tuyệt đối không uống rượu bia hiện tượng không thì khả năng dẫn đến VGSVB là rất lớn.

5. URE (Ure máu): là sản phẩm thoái hóa quan trọng nhất của protein được thải qua thận.

Giới hạn bình thường: 2.5 - 7.5 mmol/l.

6. BUN (Blood Urea Nitrogen) = ure (mg) x 28/60; đổi đơn vị: mmol/l x 6 = mg/dl.

  • Tăng trong: bệnh lý thận, ăn số đông đạm, sốt, nhiễm trùng, tắc nghẽn con đường tiểu...
  • Giảm trong: ăn ít đạm, bệnh lý gan lớn, suy kiệt...

BUN: là nitơ của ure trong máu.

Giới hạn bình thường 4,6 - 23,3 mg/dl. -≫ Bun = mmol/l x 6 x 28/60 = mmol/l x 2,8 (mg/dl).

  • Tăng trong: suy thận, suy tim, ăn khá nhiều đạm, sốt, nhiễm trùng..
  • Giảm trong: ăn ít đạm, nhóm bệnh gan nghiêm trọng..

7. CRE (Creatinin): là sản phẩm đào thải của thoái hóa creatin phosphat ở cơ, lượng tạo thành tùy thuộc khối lượng cơ, được lọc qua cầu thận & thải ra nước tiểu; cũng là thành phần đạm ổn định nhất không phụ thuộc vào chế độ ăn -> có giá điều trị xác định chức năng cầu thận.

Giới hạn bình thường: nam 62 - 120, nữ giới 53 - 100 (đơn vị: umol/l).

  • Tăng trong : bệnh lý thận, suy tim, tiểu đường, tăng huyết áp vô căn, NMCT cấp...
  • Giảm trong : có thai, sản giật...

8. URIC (Acid Uric = urat): là sản phẩm chuyển hóa của base purin (Adenin, Guanin) của ADN & ARN, thải cơ bản qua nước tiểu.

Giới hạn bình thường: nam 180 - 420, chị em 150 - 360 (đơn vị: umol/l).

Tăng trong:

  • Nguyên phát: do sản xuất tăng, do bài xuất giảm (tự phát) -> liên quan các men: căn bệnh Lesh Nyhan, Von Gierke..
  • Thứ phát: do sản xuất tăng (u tủy, căn bệnh vảy nến..), bởi bài xuất giảm (suy thận, sử dụng thuốc, xơ vữa động mạch..).
  • căn bệnh Gout (thống phong): tăng acid uric/ máu có khả năng kèm nốt tophi tại khớp & sỏi urat tại thận.

Giảm trong: căn bệnh Wilson, tổn thương tế bào gan..

9. KẾT QUẢ MIỄN DỊCH

  • Anti-HBs: Kháng nguy cơ chống vi rút viêm gan siêu vi B trong máu (ÂM TÍNH < = 12 mUI/ml).
  • HbsAg: vi rút viêm gan siêu vi B trong máu (ÂM TÍNH).

10 điều liên quan đến xét nghiệm máu chuyên gia thường không nói cho bệnh nhân

1. Chuyên gia thường bỏ qua các thông tin tốt

Theo đúng thông lệ, bác sĩ cần trao đổi về kết quả xét nghiệm với bệnh nhân, thế nhưng khá nhiều người vẫn duy trì quan niệm “không có thông tin nào là tốt cả” nên họ đã im lặng. Tình trạng xét nghiệm máu toàn bộ (CBC), xét nghiệm sinh hóa, cholesterol (mỡ máu) nằm trong giới hạn bình thường, chuyên gia thường sẽ không nói, nếu có cũng chỉ gửi kết quả mà không có bình luận.

Theo những chuyên gia thuộc Viện tim phổi và Huyết học quốc gia Mỹ, ngay cả khi kết quả xét nghiệm bình thường, giới chuyên môn cũng nên trao đổi cho bệnh nhân thấy để giải quyết khâu tư tưởng, giúp bệnh nhân an tâm, phấn khởi phối hợp phòng ngừa và chữa trị nhóm bệnh đạt thành công khá cao hơn.

2. Giới hạn bình thường tại nam và nữ không giống nhau

Giá chữa bình thường của các xét nghiệm có thể khác nhau tại hai giới, dù tại cùng độ tuổi. Ví dụ, Số lượng hồng cầu trong máu thường tại trong giới hạn 5 – 6 triệu tế bào/microliter đối với phái mạnh tuy nhiên thấp hơn ở phái nữ giới, đặc biệt nhóm đàn bà mãn kinh. Đối với nhóm mãn kinh, chỉ số này chỉ đạt 4 – 5 triệu tế bào.

3. Kết quả xét nghiệm máu có ý nghĩa khác nhau tùy thuộc trên độ tuổi

Mức bình thường hemoglobin, một chỉ số đánh giá thiếu máu, cũng khác nhau theo tuổi tác, nhất là ở trẻ em và người nghiêm trọng. Đối với em bé, hemoglobin tại mức 11 – 13 gram/dl (g/dl) được coi là bình thường, trong khi đó ở đàn ông là 13,5 – 17,5 g/dl, tại nhóm con gái trưởng thành là 12 – 15,5 g/dl. Số đông chỉ số khác cũng có giới hạn bình thường chệnh lệch nhau theo độ tuổi.

4. Kết quả xét nghiệm “dương tính” không phải là thông tin tích cực

Một số xét nghiệm như xét nghiệm máu tế bào hình liềm, xét nghiệm HIV, xét nghiệm viêm gan B, kết quả được coi là “dương tính” khi nhận biết cho rằng những chất tạo bệnh, ADN hoặc protein. Trong những hiện tượng này, kết quả xét nghiệm dương tính có nghĩa người trong cuộc có khả năng bị bệnh hoặc đã tiếp xúc, phơi nhiễm nguồn tạo nên bệnh lý trong quá khứ.

5. Kết quả xét nghiệm “âm tính” thường là thông tin tốt lành

Kết quả xét nghiệm “âm tính” không phải là xấu hay “tiêu cực”. Một xét nghiệm âm tính có nghĩa không phát hiện hiểu chất tạo nên nhóm bệnh hoặc một yếu tố nguy cơ đối với hiện tượng sức khỏe hiện ở. Khi xét nghiệm máu để kiểm tra căn bệnh di truyền nhiễm, hay xét nghiệm máu nhanh để nhận thấy nhóm bệnh viêm gan C, trường hợp kết quả là âm tính có nghĩa tốt lành, không có bằng chứng của nhiễm trùng.

6. Kết quả xét nghiệm “dương tính” giả đôi khi vẫn có

Đôi khi kết quả trả về là dương tính, thế nhưng thực tế bạn không hề có bệnh theo ý nghĩa dương tính, đây gọi là dương tính giả. Do đó để đảm bảo độ chính xác, người ta phải xét nghiệm số đông lần, ở phần lớn cơ sở để đối chứng. Chẳng hạn như riêng xét nghiệm HIV nhanh, thì kết quả dương tính giả rất phổ biến. Ví dụ trong những cộng đồng nơi có tỉ lệ 1% dân số bị nhiễm vi rút, thì cứ 10 xét nghiệm nhanh HIV có đến 2 là dương tính giả.

7. Và… có cả các kết quả xét nghiệm “âm tính” giả

Trong thực tế, kết quả xét nghiệm máu âm tính giả đôi khi vẫn xảy ra, tức là người có căn bệnh nhưng kết quả trả về không nhận thấy ra. Ví dụ, bệnh nhân viêm gan B trong vài tuần tới vài tháng đầu khi xét nghiệm HbsAg (một xét nghiệm nhận biết viêm gan B thường dùng) vẫn cho kết quả âm tính. Do lý do này, việc xét nghiệm lại là cần thiết, đặc biệt nhóm người liên tục tiếp xúc với nguồn truyền nhiễm.

8. Kết quả xét nghiệm giữa các cơ sở y tế không thống nhất

Theo cơ quan Quản lý Thực – Dược Mỹ (FDA), việc tham chiếu kết quả xét nghiệm giữa những cơ sở y tế là chuyện của mỗi cá nhân và chỉ dùng cho mục đích tham khảo. Kết quả không thống nhất giữa các phòng xét nghiệm không phải là không thể, do kết quả xét nghiệm còn dựa vào đa số yếu tố cũng như đặc điểm từng phòng xét nghiệm.

9. Kết quả xét nghiệm bất thường đôi khi không phải tại bị bệnh

tình trạng kết quả thử nghiệm máu nằm ngoài phạm vi cho phép thông thường sẽ được kết luận là nhiễm bệnh hoặc bị rối loạn. Tuy nhiên cũng có các tình trạng bất thường là nhất thời, không phải do bị bệnh. Ví dụ, trường hợp xét nghiệm glucose (đường huyết) mà không nhịn ăn hoặc đã uống rượu trong đêm hay dùng thuốc thì kết quả ở thời điểm đó có thể sẽ là bất thường.

10. Sai sót từ con người

Mặc dù “đọc” sai kết quả trong xét nghiệm máu hiếm khi xảy ra, tuy nhiên trong thực tế vẫn tồn ở. Số đông nguyên do, kể cả chủ quan lẫn khách quan và đôi khi bác sĩ không nói cho người bệnh nhận thấy. Trong đó có sai lầm của chủ yếu con người, bao gồm người bệnh lẫn chuyên gia. Ví dụ như vì hiện tượng nhầm mẫu máu của người này với người kia, lấy mẫu máu không đúng phương pháp, và cả tại khâu vận chuyển, lưu giữ mẫu máu trước khi xét nghiệm v.v.

Cuối cùng, bạn cũng cần hiểu rõ rằng xét nghiệm máu không phải là vạn năng, nó chỉ phản ánh được một góc của bức tranh tổng nguy cơ về sức khỏe con người. Để đánh giá tình trạng trạng sức khỏe tổng nguy cơ cần sự khai thác thông tin, thăm khám toàn thân tỉ mỉ và rất nhiều cách thăm dò khác. Hy vọng các thông tin trên đây sẽ giúp bạn có thêm thấy cho rằng về các xét nghiệm thường được làm nhất mỗi khi đến cơ sở y tế.

0 Nhận xét:

Đăng nhận xét