Bệnh lý dịch tả lợn châu Phi được cho là đã mọc từ năm 1907 và được mô tả lần đầu tiên vào năm 1921 tại Kenya. Nhóm bệnh lây lan trong nội bộ khu vực châu Phi cho đến năm 1957, là thời điểm có báo cáo xuất hiện dịch tại Bồ Đào Nha. Kể từ đó, căn bệnh bắt đầu lây lan qua những nước châu Âu trong những năm 1980 và gần đây đã mọc tại Nga, Trung Quốc, Nhật Bản.
Mỗi ngày đều có báo cáo về phát sinh ổ dịch tả lợn châu Phi trên khắp thế giới. Ngày gần nhất có báo cáo về dịch tả lợn châu Phi ở Trung Quốc là ngày 07/09/2018 ở tỉnh An Huy và tính đến thời điểm hiện tại đã có khoảng 40.000 lợn nhiễm bệnh được tiêu hủy nhằm khống chế dịch. Bệnh lý dịch tả lợn châu Phi đã trở thành một nguy cơ hiện hữu với ngành chăn nuôi lợn tại những nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.
Vi rút tạo nên căn bệnh dịch tả lợn châu Phi (ASFV) là một DNA vi rút, thuộc họ Asfarviridae. Đây là một loại virus khác hoàn toàn với virus gây ra căn bệnh Dịch tả lợn cổ điển (Classical swine fever vi rút – CSFV) là một loại ARN virus, thuộc họ Flaviviridae. ASFV chủ yếu gây ra nhiễm vào đại thực bào của lợn và tạo nên dịch nhóm bệnh nghiêm trọng cho đàn lợn nuôi và lợn rừng. ASFV bị vô hoạt ở nhiệt độ 60oC trong 20 phút, pH =11,5. Các hóa chất sát trùng thông dụng đều có thể tiêu diệt vi rút như ête, chloroform, NaOH 0,8%, clorin 3%, formalin 0,3% và các hợp chất chứa iod. Vi rút có khả năng tồn ở lâu dài trong máu, trong các mô bào và các sản phẩm thịt sống hoặc nấu không chín kỹ. Loài ve mềm (thuộc chi Ornithodoros) đóng vai trò vectơ truyền căn bệnh.
Lợn mắc virus dịch tả lợn châu Phi có tỉ lệ chết 100% - (ảnh Internet).
Bệnh dịch tả lợn châu Phi không lây nhiễm sang người nhưng có khả năng dẫn đến bệnh lý và gây chết số đông lợn gây thiệt hại nặng nề cho ngành chăn nuôi lợn.
Biểu hiện lâm sàng của căn bệnh khá lớn hay nhẹ căn cứ vào độc lực của vi rút gây nên bệnh. Virus độc lực khá cao thường tạo nên bệnh ở nguy cơ quá cấp tính và cấp tính với tỷ lệ chết lên tới 100%. Vi rút độc lực trung bình dẫn đến căn bệnh tại thể cấp và á cấp tính với tỷ lệ chết khoảng 60% trong khi nhóm bệnh thể mạn tính và ẩn tính thường do vi rút độc lực kém gây nên với tỷ lệ chết từ 2 – 10%. Lợn căn bệnh ở nguy cơ cấp tính thường có các biểu hiện như: Sốt khá cao (41-42oC), bỏ ăn, nằm nghiêng, tăng tần số hô hấp, nôn và chảy nước mắt, nước mũi. Lợn mọc các đám hoặc nốt xuất huyết tại tai, bụng, bẹn, đuôi và chân. Lợn có nếu táo bón rồi tiêu chảy, phân có khả năng nhày hoặc lẫn máu (có nguy cơ quan sát thấy dính vào gốc đuôi). Về căn bệnh tích khi mổ khám có khả năng thấy nếu xuất huyết dưới da, sưng và xuất huyết ở hạch lâm ba khiến hạch lâm ba đỏ tím như cục máu (đặc biệt là hạch tại khu vực gần dạ dày, gan và thận). Xoang bao tim tích nước vàng, tràn dịch màng phổi, tích dịch ở xoang bụng. Phổi sung huyết hoặc xuất huyết thành đốm, khí phế quản tích bọt. Vỏ thận xuất huyết điểm. Dạ dày và ruột cũng xuất huyết thành đốm hoặc thành mảng.
Cho tới nay, vẫn chưa có vắc xin để phòng căn bệnh này do:
- những cho rằng thấy về điểm cảm thụ của virus ở tế bào đích còn khá hạn chế.
- Sự phức tạp trong hệ gene của vi rút.
- Thiếu quá nhiều thông tin về mối liên hệ giữa nguy cơ dẫn đến căn bệnh và yếu tố dịch tễ học của nhóm bệnh.
Vì thế, một chương trình hành động quyết liệt để phòng chống bệnh căn cứ vào các biện pháp an toàn sinh học là rất cần thiết. Sự gắn kết nghiên cứu giữa người chăn nuôi, chuyên gia thú y và những nhà khoa học càng trở nên đặc biệt quan trọng trong thời điểm này, khi bệnh dịch tả lợn châu Phi đã trở thành một mối nguy thực sự với ngành chăn nuôi lợn ở Việt Nam.
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét